THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ ĐẠI DIỆN: RỐI CHUYỆN ỦY QUYỀN TRONG ÁN DÂN SỰ

Thực tiễn xét xử án dân sự, không ít lần giữa VKS và tòa, giữa tòa cấp dưới với tòa cấp trên đã tranh cãi về chuyện ủy quyền của các đương sự.

 
Nguyên nhân là quy định chưa cụ thể, chưa điều chỉnh được một số tình huống mới phát sinh trong đời sống…

Năm 2007, ba nhân viên của một công ty bị bắt, bị khởi tố vì trộm giấy ủy nhiệm chi mà giám đốc công ty ký sẵn (trị giá hơn 3,6 tỉ đồng) rồi mang đến một chi nhánh của Ngân hàng B yêu cầu chuyển tiền vào tài khoản cá nhân.

Có cần ghi rõ phạm vi ủy quyền?

Sau đó, Ngân hàng B ủy quyền cho chi nhánh nơi các bị can đến chuyển tiền tham gia phiên tòa sơ thẩm với tư cách là bên có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Sau phiên sơ thẩm cuối năm 2010 của TAND TP.HCM, chi nhánh ngân hàng kháng cáo về phần bồi thường dân sự.

Trong phiên phúc thẩm gần đây, đại diện VKSND Tối cao đã đề nghị tòa bác kháng cáo vì theo nội dung giấy ủy quyền thì Ngân hàng B chỉ ủy quyền cho chi nhánh tham gia phiên sơ thẩm chứ không ủy quyền cả việc kháng cáo. Việc kháng cáo của chi nhánh ngân hàng là vượt quá phạm vi ủy quyền.

Tuy nhiên, Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP.HCM lại cho rằng chi nhánh ngân hàng đã được Ngân hàng B ủy quyền thường xuyên để giải quyết công việc hằng ngày. Vì thế, đại diện chi nhánh ngân hàng có thể tham gia ở bất kỳ giai đoạn tố tụng nào trong một vụ án có liên quan tới mình. Từ đó, tòa tiếp tục xử chứ không bác kháng cáo như đề nghị của đại diện VKS.

Nhận định của tòa phúc thẩm đã gây tranh cãi về mặt pháp lý. Theo Thẩm phán Nguyễn Huy Hoàng (TAND quận Gò Vấp, TP.HCM), quan điểm của đại diện VKSND Tối cao là hợp lý. Thẩm phán Hoàng lý giải: Đương sự phải ghi rõ nội dung ủy quyền vì sơ, phúc thẩm là hai giai đoạn tố tụng độc lập, khác nhau.

 

Đồng tình, TS Nguyễn Văn Tiến (giảng viên Trường ĐH Luật TP.HCM) cũng nhận xét: Mỗi giai đoạn tố tụng bao hàm những thủ tục khác nhau nên cần những yêu cầu khác nhau. Vì lẽ đó, việc đòi hỏi giấy ủy quyền phải ghi rõ từng nội dung ủy quyền không hẳn là vô cớ.

Khi nào phải làm lại giấy ủy quyền?

Tháng 3-2006, bà PTNN khởi kiện yêu cầu người con trai trả lại một phần đất tại huyện Dầu Tiếng (Bình Dương). Tháng 7-2006, TAND huyện Dầu Tiếng xử sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu của bà N. Đầu năm 2007, TAND tỉnh Bình Dương xử phúc thẩm cũng tuyên bà N. thắng kiện…

Sau khi chánh án TAND Tối cao kháng nghị giám đốc thẩm, tháng 6-2010, Tòa Dân sự TAND Tối cao đã hủy cả hai bản án sơ, phúc thẩm, giao hồ sơ cho TAND huyện Dầu Tiếng xử sơ thẩm lại. Tháng 8-2011, TAND huyện Dầu Tiếng xử sơ thẩm lần hai với kết quả như lần xử sơ thẩm đầu tiên. Sau đó, người con kháng cáo…

Trong vụ này, điều đáng nói là sau khi thụ lý lại, TAND huyện Dầu Tiếng đã không yêu cầu một người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan làm lại giấy ủy quyền mới mà vẫn giữ nguyên giấy ủy quyền của lần xử sơ thẩm thứ nhất. Ngoài ra, tòa còn chấp nhận một giấy ủy quyền không hợp lệ về hình thức: Ban đầu, do thiếu hiểu biết nên bà N. cùng bốn người khác đồng đứng đơn kiện rồi ủy quyền cho một người tham gia tố tụng. Sau đó, tòa xác định chỉ có bà N. là nguyên đơn, bốn người kia có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Lẽ ra phải yêu cầu bà N. làm giấy ủy quyền mới thì tòa lại chấp nhận luôn giấy ủy quyền cũ.

Theo Thẩm phán Nguyễn Huy Hoàng, tòa không yêu cầu các đương sự làm ủy quyền mới là vi phạm tố tụng nghiêm trọng, có thể bị hủy án. Bởi lẽ khi một bản án bị hủy để xử lại thì quá trình tố tụng đương nhiên được quay lại từ đầu nên tòa bắt buộc phải yêu cầu đương sự làm giấy ủy quyền mới. Chưa kể, ý chí của các đương sự lúc đó có thể khác với trước. Tuy nhiên, để tạo thuận lợi cho đương sự, tòa có thể linh động mời các bên đến hỏi xem họ có đồng ý giữ nguyên nội dung ủy quyền cũ hay không. Thậm chí ngay tại lúc mở đầu phiên xử, tòa cũng có thể hỏi như trên rồi lập biên bản ghi nhận.

Thẩm phán Phạm Công Hùng (Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP.HCM) lại cho rằng nên chia thành hai dạng cụ thể: Nếu giấy ủy quyền cũ chỉ ghi chung chung thì khi thụ lý lại vụ án, tòa phải yêu cầu đương sự làm ủy quyền mới để tránh vi phạm tố tụng. Nếu giấy ủy quyền cũ có ghi đầy đủ nội dung, thời gian, phạm vi, thời hạn ủy quyền, mặt khác bên ủy quyền và bên nhận ủy quyền không có gì thay đổi thì nó vẫn có nguyên giá trị. Bởi lẽ việc hủy án xử lại chỉ là trình tự tố tụng, còn việc ủy quyền liên quan đến quyền và nghĩa vụ của đương sự. Hai việc này hoàn toàn khác nhau…

Ủy quyền “chi ly” hay “bao quát”?

Xung quanh chuyện phạm vi ủy quyền của đương sự, hiện đang có hai luồng ý kiến khác nhau.

Luồng ý kiến thứ nhất dựa vào hướng dẫn tại Nghị quyết 05 năm 2006 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao cho rằng người ủy quyền phải liệt kê rõ ràng từng nội dung ủy quyền trong văn bản. Chẳng hạn, giấy ủy quyền phải ghi “ông A. được thay mặt tôi kháng cáo bản án” thì người đại diện mới có quyền kháng cáo.

Luồng ý kiến thứ hai thoáng hơn, lập luận Điều 73 BLTTDS (về người đại diện) không bắt buộc giấy ủy quyền phải ghi chi ly từng công việc của người đại diện nên chỉ cần ghi có tính bao quát là đủ. Chẳng hạn ghi “ông A. được thay mặt tôi tham gia tố tụng” thì người đại diện đương nhiên có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ xuyên suốt trong mọi giai đoạn tố tụng.

Không cần liệt kê cụ thể

Trong vụ việc của ngân hàng, theo tôi không cần liệt kê rõ từng nội dung và yêu cầu mỗi giai đoạn tố tụng phải có một ủy quyền mới. Về nguyên tắc, khi hợp đồng ủy quyền được xác lập, có công chứng thì người đại diện được làm tất cả những gì đã nhận ủy quyền. Không phải máy móc hiểu là trong giấy ủy quyền ghi hai chữ kháng cáo thì người nhận ủy quyền mới được kháng cáo. Trừ khi ủy quyền có ghi thời gian thì hết thời hạn đó phải làm ủy quyền mới. Nhưng riêng trong giai đoạn thi hành án thì chuyện ủy quyền phải cụ thể, chi tiết và thường phải làm ủy quyền mới.

Luật sư TRẦN HẢI ĐỨC, Đoàn Luật sư TP.HCM

Tùy nội dung ủy quyền

Ở vụ của bà N., tôi cho rằng phải tùy vào nội dung ủy quyền mới xác định được là cần giấy ủy quyền khác hay không. Nếu giấy ủy quyền ghi rõ người đại diện chỉ được thay mặt đương sự tham gia giai đoạn sơ thẩm hoặc phúc thẩm (giới hạn phạm vi ủy quyền) thì khi án bị hủy, họ phải làm lại ủy quyền mới. Nếu giấy ủy quyền có ghi thời gian được ủy quyền thì hết thời gian đó đương nhiên nó hết hiệu lực, phải làm ủy quyền lại. Còn nếu giấy ủy quyền chỉ ghi chung chung là “được quyền thay mặt giải quyết mọi vấn đề liên quan đến khi vụ án kết thúc” thì tòa vẫn có thể chấp nhận giấy cũ.

Luật sư TRẦN NGỌC QUÝ, Đoàn Luật sư TP.HCM

Cần hướng dẫn

Đã đến lúc TAND Tối cao có văn bản hướng dẫn đầy đủ quy định từ hình thức, nội dung cho đến việc thế nào là một giấy ủy quyền hợp lệ. Có hướng dẫn để áp dụng thống nhất sẽ tránh được những sai sót và tranh cãi như hiện nay.

TS NGUYỄN VĂN TIẾN, Trường ĐH Luật TP.HCM

Nguồn tin: thongtinphapluatdansu.wordpress.com